>> Những cú đấm của Dagan
>> Đòn độc của Mossad: Những
vụ ám sát bí ẩn
>> Hé lộ chiến dịch ám
sát bí ẩn của Israel
>> Vụ ám sát
'chim ưng thánh chiến' của Mossad
>> Vụ ám sát hoàn hảo
của Mossad
>> Chiến dịch loại bỏ loại bỏ
“nguy cơ hạt nhân Irắc” từ trứng nước
>> Chiến dịch Opera - Phá hủy
lò phản ứng hạt nhân
>>
Tình báo Mossad và những cuộc ám sát thủ lĩnh Hamas
>> Thảm sát Munich và cuộc báo thù của Mossad
>> Điệp vụ đánh cắp máy bay MiG-21 của Iraq
>> Điệp vụ đánh cắp máy bay MiG-21 của Iraq
>> Các cuộc hạ sát thủ lĩnh Hamas của Mossad
>> Chiến
dịch hạ sát thủ lĩnh khủng bố Mughniyah của CIA và Mossad
>> Chiến dịch đánh cắp hệ thống radar của Ai Cập
>> Những chiến dịch tìm diệt của Israel
>> Chiến dịch đánh cắp hệ thống radar của Ai Cập
>> Chiến dịch giải cứu các phi công của Israel
>> Những chiến dịch tìm diệt của Israel
>> Những điệp vụ trong bóng tối
>> Cái chết bí ẩn của một điệp viên cao cấp Nga
Trung Đông, 1980…
Chưa kịp thở phào nhẹ nhõm vì các điệp vụ thành công, Tel Aviv đã nhận ngay tin dữ: Pháp đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ ghi trong hợp đồng với Iraq . Italia cũng đã cung cấp cho Iraq số hàng mà nước này đặt mua đúng hạn còn Brasil cũng bắt đầu lên kế hoạch chuyển urani làm giàu tới nước này.
Như vậy, bất chấp những nỗ lực của Mossad, chương trình hạt nhân của Iraq vẫn được thúc đẩy.
Tel Aviv cuống lên không hiểu tại sao chương trình hạt nhân của Iraq lại có thể tiến triển nhanh đến vậy. Rất may, tháng 9/1980, chiến tranh Iran-Iraq bùng nổ. Đối với TelAvit, đây quả là thời cơ từ trên trời rơi xuống.
Mossad được lệnh cử
một lượng lớn đặc vụ theo dõi nhất cử nhất động của Iraq . Cùng với việc nhận được ngày
càng nhiều tin tức tình báo liên quan đến chương trình hạt nhân của quốc gia
này, các lãnh đạo Mossad càng cảm thấy bất an.
“Cho dù thế nào cũng
phải ngăn chặn Irắc trở thành nước sở hữu sức mạnh hạt nhân”, Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Quốc phòng Israel
khi đó, ông Menachem Begin nhấn mạnh. Tuy nhiên những nỗ lực bằng sức ép ngoại
giao của Israel
đều thất bại.
Thủ tướng Begin đã đặt
cả hi vọng vào Giám đốc Mossad - ông Yitzhak Hofi. Thủ tướng Begin gọi ông
Hofi lên ra lệnh mà như khẩn khoản: Mossad, hãy hành động đi! Hãy cứu lấy Israel !
Ông Hofi vừa bước sang
tuổi 50, có thân hình thấp lùn, khuôn mặt tròn, chiếc mũi cà chua và đôi mắt ti
hí, ít nói, tính tình lạnh lùng và luôn giữ một khoảng cách nhất định với mọi
người.
Tuy nhiên xét về
chuyên môn, Hofi rất có năng lực, kể cả về tổ chức hoạt động lẫn việc đưa ra
những đánh giá, phân tích nhận định tình báo. Người ta cho rằng gần như không
có chuyện gì là có thể lọt qua mắt ông.
Theo sự tham mưu của Hofi, Begin lập tức triệu kiến Tư lệnh Không quân, Tướng David Ivry.
Ba người bí mật bàn bạc vạch đường đi nước bước cho Chiến dịch Babylon (còn có tên khác là Chiến dịch Opera hoặc Chiến dịch Ofra): Israel sẽ huy động những chiếc máy bay ném bom hiện đại nhất bay qua Arap Saudi sau đó xuyên qua vùng sa mạc rộng lớn của Iraq, trực chỉ tới khu vực ngoại ô Bagdad, đánh đòn rải thảm nhằm vào lò phản ứng hạt nhân Osirak!
Một lần nữa, người Israel lại gặp may. Số là trước đó không lâu, Mỹ đã bán cho Israel loại máy bay chiến đấu đa năng hiện đại nhất lúc bấy giờ là F-16, do hãng Lockhees Martin chế tạo. Loại máy bay này nếu lắp thêm thùng dầu phụ hoàn toàn có thể vươn tầm bay tới thủ đô của Iraq (khoảng 1.100 km) và đủ nhiên liệu để trở về.
Thời cơ đã đến
Vào đúng thời điểm cuộc chiến Iran – Iraq diễn ra khốc liệt, Thiếu tướng Yehushua Saguy của Israel đã xuất hiện trên tờ báo“Buổi chiều” ở Ten Avip và đặt câu hỏi: "Không hiểu tại sao đến giờ mà Iran vẫn chưa ném bom phá hủy lò phản ứng hạt nhân của Iraq?".
Tất nhiên đó cũng là con bài của Mossad bày cho vị tướng này. Những người bình thường có thể sẽ không để ý đến chi tiết này, nhưng viên tướng đứng đầu Mossad thì rất rõ.
Ngày 30/9/1980, hai chiếc máy bay ném bom F-4E Phantom sơn cờ hiệu của không quân Iran ào đến dội bom, phóng tên lửa xuống Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Al- Tuweitha của Iraq. Đương nhiên, mọi tội lỗi sau đó được Iraq trút lên đầu Teheran. Người Iran liên tục tuyên bố phủ nhận trách nhiệm, nhưng không ai tin họ.
Điều mà
cả thế giới không ngờ là các phi công và máy bay ném bom của Iran đã được ngụy trang bởi bàn tay của
Mossad. Tháng 6/1981, hãng thông tấn nhà nước Iraq mới ra tuyên bố nêu rõ "món
nợ Al- Tuweitha" ngày
30/9/1980 cần phải ghi cho "Nhà nước Do Thái".
Chiến
dịch Opera - Phá hủy lò phản ứng hạt nhân
Chiến dịch Opera,
cũng được gọi là Chiến dịch Ofra, là một cuộc không kích bất ngờ năm 1981 của
Israel phá huỷ lò phản ứng hạt nhân của Iraq đang được xây dựng tại Osirak .
Những năm
cuối thập kỷ 80 thế kỷ 20, Iraq
đang mạnh lên ở vùng Trung Đông và cố gắng có được bom nguyên tử. Mossad được
lệnh thực hiện chiến dịch Ofra - một chiến dịch được mệnh danh “bàn tay sắt và máu”.
Hồi
cuối thập niên 1970, Iraq
đã mua một lò phản ứng hạt nhân "lớp Osiris" của Pháp. Tình báo quân
sự Israel cho rằng lò phản
ứng này có mục đích sản xuất plutonium cho chương trình vũ khí hạt nhân của Iraq . Tình báo
Israel cũng tin rằng mùa hè năm 1981 sẽ là cơ hội cuối cùng để phá huỷ lò phản
ứng trước khi nó được lắp đặt các thanh nhiên liệu hạt nhân.
Ngày
7 /6/1981, một chiếc máy bay chiến đấu F-16A của Không quân Israel, với sự hộ
tống của những chiếc F-15A, đã ném bom và phá huỷ nặng nề lò phản ứng Osirak.
Sơ lược chương
trình hạt nhân của Iraq
Iraq
đã thành lập một chương trình hạt nhân trong thập niên 1960, và tới giữa thập
niên 1970 tìm cách mở rộng nó thông qua việc mua một lò phản ứng hạt nhân. Sau
khi không thể thuyết phục chính phủ Pháp bán cho họ một lò phản ứng hạt nhân
gas-graphite sản xuất-plutonium và nhà máy xử lý, và cũng không thể thuyết phục
chính phủ Italia bán cho họ một lò phản ứng Cirene, Chính phủ Iraq đã thuyết
phục được Chính phủ Pháp bán cho họ một lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu lớp
Osiris và các phòng thí nghiệm kèm theo.
Lò phản ứng
Osirak trước khi bị không kích
Việc
xây dựng một lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ 40-megawatt bắt đầu năm 1979 tại
Trung tâm Hạt nhân Al Tuwaitha gần Baghdad .
Lò phản ứng hạt nhân được phía Pháp gọi là Osirak (Osiraq), tên theo tiếng Iraq của lớp lò
phản ứng này. Cái tên của Iraq
cho lò phản ứng là Tammuz 1 theo tên tháng trong lịch Ả Rập khi Đảng Baath lên
nắm quyền năm 1968.
Các bên tuyên bố
rằng mục đích duy nhất của các lò phản ứng hạt nhân của Iraq là nghiên
cứu khoa học. Những thoả thuận giữa Pháp và Iraq loại trừ việc sử dụng quân sự.
Các nhà quan sát cho rằng Iraq
không có khả năng phát triển các vũ khí hạt nhân. Tổng giám đốc IAEA xác nhận
rằng những cuộc thanh tra các lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu gần Baghdad cho thấy không có
điều gì không tương thích với các thoả thuận. Tuy nhiên nhiều người không tin
điều đó; ví dụ, cơ quan tình báo Mỹ STRATFOR tin rằng lò phản ứng có thể sản
xuất plutonium đủ cho một chương trình vũ khí.
Lên kế hoạch Chiến
dịch
Khoảng
cách giữa các căn cứ quân sự Israel và địa điểm lò phản ứng khá xa—hơn 1600 km
(1000 dặm), đồng nghĩa với việc các lực lượng tấn công của Israel sẽ phải hoạt
động mà không có sự hỗ trợ, và phải vượt qua lãnh thổ Jordan và Saudi Arabia.
Ngoài ra, tình báo Israel
không thể đảm bảo tính chính xác của tin tức về tình trạng phòng vệ phía Iraq .
Sơ đồ chiến
dịch và địa điểm ném thùng nhiên liệu phụ
Cơ sở hạt nhân
của Iraq
trước khi bị không kích.
Chiến đấu cơ
F-16 của IAF tại căn cứ không quân Hatzerim, miền Nam
Israel .
Lò phản ứng hạt
nhân Osirak sau trận không kích.
Sau
nhiều tranh cãi, cuối củng quân đội Israel kết luận rằng một phi đội F-16A với
nhiều nhiên liệu và vũ khí, với một nhóm F-15A bảo vệ và hỗ trợ, có thể thực
hiện một cuộc tấn công vào lò phản ứng mà không cần tái nạp nhiên liệu.
Quân đội Israel cũng
quyết định rằng điều mấu chốt là phải phá huỷ lò phản ứng trước khi nó được lắp
đặt những thanh nhiên liệu hạt nhân, để giảm thiểu những hiệu ứng của việc phá
huỷ nó với dân thường. Nhiều nhà khoa học châu Âu đang làm việc ở lò phản ứng,
và Israel quyết định tấn công vào Chủ nhật, khi hầu hết các nhà khoa học đang
nghỉ.
Có tin tình báo rằng các thanh nhiên liệu đang được dự định chở từ Pháp tới Iraq, nội các Israel – khi ấy dưới sự lãnh đạo của Menachem Begin — đã cho phép thực hiện chiến dịch.
Có tin tình báo rằng các thanh nhiên liệu đang được dự định chở từ Pháp tới Iraq, nội các Israel – khi ấy dưới sự lãnh đạo của Menachem Begin — đã cho phép thực hiện chiến dịch.
Cuộc không kích
Chiến
dịch Opera được lên kế hoạch kỹ lưỡng vào ngày Chủ nhật để giảm thiểu thiệt hại
nhân mạng với các công nhân nước ngoài, và vụ tấn công được dự định vào cuối
buổi chiều để Đội Cứu hộ và Giải cứu Chiến đấu Israel (CSAR) có cả đêm để cứu
hộ cho các phi công Israel nếu bị bắn rơi.
Phi đội tấn công
gồm 8 chiếc F-16A của Không quân Israel, mỗi chiếc trang bị hai quả bom nổ chậm
không điều khiển Mark-84 nặng 2.000 pound. Một phi đội 6 chiếc F-15A cũng được
điều động để hỗ trợ cho phi đội F-16A. Ilan Ramon, một phi công F-16A người sẽ
trở thành nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Israel
và thiệt mạng trong thảm hoạ Tàu con thoi Columbia
năm năm 2003, là người trẻ tuổi nhất tham gia chiến dịch. Khi ấy ông còn hai
tuần nữa là tới 27 tuổi.
Ngày
7 tháng 6 năm 1981 lúc 15:55 giờ địa phương (12:55 GMT) kế hoạch bắt đầu được
thực hiện. Lực lượng tấn công rời Căn cứ Không quân Etzion, bay ở độ cao 800
feet qua không phận Jordan
và Ả Rập Xê-út. Để tránh bị phát hiện, phi công Israel đã giả giọng Ả Rập Xê-út
khi bay qua không phận của Jordan, tại đây họ nói với đài không lưu của Jordan
rằng phi đội của họ là một phi đội tuần tra của Ả Rập Xê-út bay lố. Cũng như
vậy khi bay qua Ả Rập Xê-út, phi công Israel lại giả là quân Jordan bằng cách
sử dụng đội hình bay và tần số liên lạc của không quân Jordan khi liên lạc với
Ả Rập Xê-út.
Ở khoảng cách
1.000 km, chiến dịch gặp rắc rối với các thùng nhiên liệu phụ của những chiếc
F-16A. Những chiếc máy bay được chất tải quá nặng khiến các bình nhiên liệu phụ
(hai thùng 1.400 pounds dưới cánh và một thùng 1.100 pounds dưới bụng) cạn khi
lực lượng tấn công vẫn trên đường tới lò phản ứng Osirak. Những thùng nhiên
liệu phụ này được vứt bỏ trên sa mạc Saudi trước khi phi đội tới được mục tiêu.
Trên đường tới
Osirak, phi đội Israel vô
tình bay trực tiếp qua du thuyền của vua Jordan – Hussein, lúc này đang du
lịch ở vịnh Aqaba. Nhận ra hướng bay (tới lò phản ứng của Iraq và trang bị đặc trưng của không quân Israel , vua Hussein lập tức liên lạc ngay với
chính phủ Jordan để báo động
cho phía Iraq .
Tuy nhiên vì vài lý do bí ẩn, việc liên lạc giữa Jordan
và Iraq đã thất bại, vì thế
phi đội của Israel tiếp tục
tiến vào không phận của Iraq
mà không hề bị phát hiện.
Ngay khi tới
không phận Iraq, phi đội tách ra, với hai chiếc F-15 hình thành đội hình hộ
tống gần cho phi đội F-16, và những chiếc F-15 còn lại tản ra trong không phận
Iraq theo chiến thuật sẵn sàng hỗ trợ. Phi đội tấn công hạ xuống độ cao 30 m
trên sa mạc Iraq , tìm cách
bay dưới tầm radar của các lực lượng phòng vệ Iraq .
Lúc 18:35 giờ địa
phương (14:35 GMT), 20 km từ khu phức hợp lò phản ứng hạt nhân Osirak, đội hình
F-16 hạ xuống 2.100 m và bổ nhào ở góc 35 độ với vận tốc 1.100 km/h, nhắm thẳng
vào lò phản ứng. Ở độ cao 1.100 m, những chiếc F-16 bắt đầu ném từng cặp bom
Mark 84, cách quãng 5 giây. Theo các báo cáo của Israel, tất cả 16 quả bom đều
trúng vào khu phức hợp, dù hai quả được báo cáo là không nổ. Các lực lượng
phòng không bắt đầu nổ súng vào phi đội khi họ lên tới độ cao 12.200 m và bắt
đầu quay trở về Israel .
Một quả bom
Mark-84
Sau
vụ tấn công xảy ra, một báo cáo tiết lộ rằng chỉ nửa tiếng trước khi phi đội
Israel tới lò phản ứng, một nhóm lính phòng không Iraq đi ăn trưa đã rời vị trí
phòng thủ và tắt toàn bộ radar. Mặc dù vậy, các máy bay của Israel vẫn bị lực lượng phòng không Iraq bắn chặn
khi rút lui, tuy nhiên không có tổn thất nào xảy ra.
Toàn bộ cuộc tấn
công diễn ra vỏn vẹn trong vòng 2 phút. Theo như phi công Ze’ev Raz, người chỉ
huy cuộc tân công, trên đường trở về lại căn cứ, các phi công Israel đã mừng
chiến thắng bằng cách dẫn lại một trích đoạn trong kinh thánh (Joshua 10:12):
"Mặt Trời, hãy đứng bóng trên Gibeon, và Mặt Trăng, trên thung lũng
Ayalon", nhằm tưởng nhớ tới chiến công của Joshua-thủ lĩnh Israel năm xưa
đánh bại quân Amorite tại thung lũng Ayalon và cứu nguy thành Gibeon.
Theo các báo cáo
của Israel các lực lượng
quốc phòng Iraq
không kịp bảo vệ và phản ứng quá chậm. Dù với bất kỳ lý do nào, các lực lượng
phòng không của cơ sở này đã không thể làm hư hại bất kỳ chiếc máy bay tấn công
nào. Dù có những lo ngại về những chiếc máy bay đánh chặn của Iraq , phi đội không gặp sự tấn công nào và quay
về không phận Israel .
Menachem Begin, thủ tướng của Israel – người đứng đầu chiến dịch
Opera, rời khỏi một máy bay khi đến Mỹ, đi cùng là "độc nhãn tướng
quân" Moshe Dayan.
Kết quả
Chiến
dịch đã hoàn thành nhiều mục tiêu của Israel . Khu phức hợp lò phản ứng bị
hư hại nặng nề, đúng theo kế hoạch. Mười binh sĩ Iraq và một nhà nghiên cứu dân sự
Pháp thiệt mạng trong vụ tấn công. Từ đó đã có một số nhà bình luận đề xuất
rằng nhà nghiên cứu người Pháp Damien Chaussepied là một điệp viên của Mossad
và chịu trách nhiệm đặt một số dấu hiệu chỉ đường tại địa điểm để các máy bay
tấn công, dù không có bằng chứng cho điều này.
Một số nhà nghiên
cứu người Iraq nói rằng
chương trình hạt nhân của Iraq
đơn giản được tiến hành bí mật, đa dạng hoá và mở rộng. Những nỗ lực của Iraq
nhằm tạo ra một lò phản ứng hạt nhân có khả năng sản xuất plutonium ước tính ở
mức độ có thể chế tạo một vũ khí cấp 1 pound plutonium mỗi năm, hay một quả bom
sau xấp xỉ 10 tới 11 tháng dường như ít được ưu tiên trong chương trình mới
này.
Cơ sở hạt nhân
Osirak vẫn ở tình trạng hư hại cho tới cuối cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh, khi một
loạt các cuộc không kích kéo dài của Hoa Kỳ phá huỷ hoàn toàn nơi này. Về mặt
chính trị, chiến dịch mang lại kết quả khả quan cho Đảng Likud cầm quyền dưới
sự lãnh đạo của Begin và họ tiếp tục cầm quyền sau chiến thắng lớn trong cuộc
bầu cử ba tháng sau đó.
(tổng hợp từ Internet)